Thứ 5 | 19/04/2018
Lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta được mở đầu từ thời đại Hùng Vương. Công lao khai thiên phá thạch mở nghiệp sơn hà của các Vua Hùng luôn được khắc ghi trong tâm thức của mọi người dân đất Việt, đã trở thành đạo lý truyền thống dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương có một vị trí đặc biệt trong đời sống tâm linh, là biểu hiện tình cảm và lòng biết ơn sâu sắc đối với các Vua Hùng có công dựng nước.
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba”
Đã là người Việt Nam không ai là không biết đến câu ca ấy và đến ngày Giỗ Tổ hàng triệu bước chân của con Lạc cháu Hồng lại nô nức hành hương về Đền Hùng, thành kính một niềm tin thiêng liêng trở về cội nguồn dân tộc. Từ nhiều năm nay tỉnh Phú Thọ đã tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng, đúng với tầm vóc là lễ hội lớn của dân tộc. Sau khi “ Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ” được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại tháng 12 năm 2012, lễ hội Đền Hùng năm Qúy Tỵ 2013, đã được tổ chức rất trang trọng, liêng thiêng gắn với việc vinh danh gây ấn tượng sâu đậm trong lòng đồng bào và du khách.
 
Du khách thập phương về Giỗ tổ Hùng Vương - Ảnh Trọng Bằng
 
Theo số liệu kiểm kê của Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Phú Thọ (nay là Sở  Văn hóa, Thể thao và Du lịch) năm 2005, toàn tỉnh có 345 di tích thờ Hùng Vương, vợ con, tướng lĩnh và các nhân vật liên quan đến thời đại Hùng Vương trải rộng ở các địa phương trong tỉnh, trong đó Đền Hùng là trung tâm thực hành tín ngưỡng lâu đời nhất. Theo dòng chảy của thời gian, trải qua bao biến cố thăng trầm, di sản văn hóa của dân tộc vẫn trường tồn và ngày càng phát triển. Nếu lấy Đền Hùng làm tâm điểm và mở rộng ra xung quanh với bán kính vài chục km, ta thấy dày đặc các giá trị văn hóa phi vật thể và vật thể : Đó là kho tàng văn hóa dân gian với biết bao truyền thuyết lịch sử, tục hèm thờ cúng , nghi thức lễ hội, trò diễn hội làng... liên quan đến thời đại Hùng Vương được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Từ huyền thoại lịch sử về cha Lạc Long Quân kết duyên cùng mẹ Âu Cơ sinh ra đồng bào ta trong "Bọc trăm trứng”  đến những việc trọng đại quốc gia: chọn đất đóng đô, cầu người hiền tài giúp vua giúp nước đánh giặc ngoại xâm, chọn người kế vị, cầu mùa màng tốt tươi đến việc thường ngày: dạy dân cây lúa, chăn tằm ươm tơ, làm bánh nấu mật; ca hát giao duyên... Mỗi một truyền thuyết đều gắn với một địa danh, một lễ hội cụ thể ở vùng Đất Tổ. Đến Phú Thọ, nghe các câu chuyện kể về thời các Vua Hùng, xem các di vật khảo cổ ta có thể hình dung một cách rõ nét về cuộc sống sinh hoạt, lao động sản xuất, đánh giặc giữ làng, và nhiều phong tục tập quán của ông cha ta từ buổi đầu dựng nước. Ngoài tín ngưỡng và lễ hội Đền Hùng, còn có những lễ hội dân gian rất đặc sắc gắn với các thời đại Hùng Vương liên quan tới Đền Hùng và vùng phụ cận của Đền Hùng: xã Hy Cương có tục thờ phồn thực nông nghiệp cầu mong sự sinh sôi qua việc thờ cúng "Đá Ông, Đá Bà" trên đỉnh núi Trọc; ngày 25 tháng năm âm lịch, Hy Cương còn có lễ "Hạ điền", diễn lại tích Vua Hùng cùng dân cấy lúa. Xã Chu Hóa và Hy Cương còn có chung tục lệ " lấy tiếng hú" và chạy " tùng dí " vào đêm giao thừa; lễ hội " Rước Chúa Gái về nhà chồng" vào 15 tháng giêng. Xã Thanh Đình, thành phố Việt Trì ngay trong tháng giêng bắt đầu từ ngày mở của đình làm lễ "Rước giải" phản ánh cuộc sống của cư dân nông nghiệp với nghề chăn thả gia súc và đánh cá; ngày mồng 4 có lễ " Rước ông Khiu, bà Khiu" là nghi thức phồn thực cầu mong sự sinh sôi của con người và mùa màng; ngày 22 có lễ hội "Tế Thánh " theo tích Tản Viên đánh giặc; ngày 23: lễ hội "hú cờ", theo tích Ngọc Hoa đi đón Sơn Tinh. Trong 5 vùng này còn có " Lễ hội đi săn ": phản ánh tục săn bắt của cư dân Việt cổ. Các làng xã khác ở vùng phụ cận Đền Hùng như Tứ Xã có lễ hội " Trò Trám", Sơn Vi có hội "Cướp cầu đánh phết "; Kim Đức có lễ hội " Hát Xoan " và tục gói bánh chưng, giã bánh giày; Hùng Lô có tục rước kiệu về dự lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương; Thụy Vân có lễ hội "cầu Đinh"; Minh Nông có lễ hội " Vua Hùng dạy dân cấy lúa"; phường Bạch Hạc có lễ hội " Bơi chải"... Tất cả lễ hội, trò diễn trên cho thấy vùng Đền Hùng, thành phố Việt Trì, miền đất trước ngã ba sông là một vùng hội tụ khá dày đặc các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, phản ánh buổi đầu bình minh của lịch sử dân tộc. Với 57 địa điểm khảo cổ đã được khai quật và nghiên cứu ở Phú Thọ, các nhà khoa học đã chứng minh rằng khu vực Đền Hùng cách đây hàng ngàn năm đã là địa bàn tụ cư của người Việt cổ và quá trình này diễn ra liên tục. Điều đó thể hiện qua các dấu tích văn hóa khảo cổ để lại kế tiếp từ văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun đến Đông Sơn với đủ các loại hình di chỉ cư trú, mộ táng, cộng xưởng , kho tàng... Ngay tại vùng ngã ba Hạc Việt Trì là nơi được coi "Tụ thủy, tụ nhân" đặc biệt có di chỉ Làng Cả mà theo sử cũ chép lại đây chính là kinh đô của nước Văn Lang cổ Đại - Nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Tại một số địa điểm khảo cổ học xung quanh Đền Hùng đã tìm được những hiện vật đặc biệt quý hiếm đó là chiếc nha chương, trống đồng thuộc giai đoạn văn hóa Đông Sơn ( loại trống Heger) có đường kính lớn nhất từ trước đến nay, được coi là vật thiêng tượng trưng cho quyền uy và địa vị của người thủ lĩnh quân chủ. Và khá nhiều hiện vật độc đáo khác như vuốt đá, bộ khóa đai lưng bằng đồng có 8 con rùa, rìu giáo, qua đồng...Trống đồng Đền Hùng và bộ khóa đai lưng bằng đồng đã được nhà nước công nhận là Bảo vật quốc gia. Có thể nói không nơi nào ở Việt Nam lại có mật độ dày đặc những hiện vật, dấu tích, huyền thoại, truyền thuyết, lễ hội, trò diễn... về các lĩnh vực đời sống thời đại Hùng Vương như ở Phú Thọ.
Tại khu vực Đền Hùng hiện vẫn còn bảo lưu khá nhiều dấu tích về thời dựng nước. Đền Thượng trên núi Nghĩa Lĩnh có Điện Kính Thiên (điện thờ Trời trên núi Nghĩa Lĩnh), tương truyền đây là nơi các Vua Hùng lên tế lễ trời đất, cầu cho mưa thuận gió hòa, muôn dân no đủ, cũng là nơi thờ thần Núi, thờ hạt Lúa thần. Trên đỉnh núi Trọc lớn nằm liền kề núi Nghĩa Lĩnh có hòn đá cối Xay (còn gọi là đá Ông, đá Bà) gắn với nghi thức cầu sinh thực khí. Tại Đền Trung theo truyền thuyết là nơi các vua Hùng bàn việc nước, cũng là nơi Hoàng tử Lang Liêu dâng bánh chưng, bánh giầy trong cuộc thi chọn người kế vị thời vua Hùng thứ 6. Khu vực Đền Hạ tương truyền nơi mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng nở thành 100 người con trai là nguồn gốc của cộng đồng người Việt. Đền Giếng là nơi thờ hai công chúa Tiên Dung, Ngọc Hoa con gái vua Hùng thứ 18...
Đến thời quốc gia độc lập tự chủ, các triều đại phong kiến đặc biệt quan tâm đến tu bổ và việc thờ cúng Hùng Vương. Một số phế tích được giới khảo cổ phát hiện ở núi Hùng - chứng minh sự ra đời của tín ngưỡng cổ xưa thờ thần Núi và thờ các vua Hùng ở núi Nghĩa Lĩnh. Khởi nguyên là tín ngưỡng thờ thần Núi và suy tôn thờ vua Hùng - người có công cao như núi mà sau này các triều đại nhà nước phong kiến đã truy phong những mỹ tự ghi tại các bài vị thờ ở đền Hạ, đền Trung, đền Thượng. Bước sang thế kỷ XV triều Lê, là giai đoạn lịch sử có sự phát triển đặc sắc trên nhiều phương diện trong đó có việc đề cao Nho giáo với tư tưởng trung hiếu. Vì vậy, việc tôn vinh di tích Đền Hùng và các Vua Hùng có công dựng nước đã phát triển lên một tầm cao mới trọng hệ tư tưởng văn hóa Việt Nam. Vua Lê Thánh Tông năm Hồng Đức nguyên niên (1470) đã cho soạn thảo Ngọc phả Hùng Vương, phong cho dân làng cổ Tích - Hy Cương là "Dân trưởng tạo lệ" miễn phu phen tạp dịch để thờ phụng các Vua Hùng. Hàng năm nhà nước cấp 3 quan tiền và 3 đấu gạo cộng với hoa lợi từ ruộng đất mà vua ban không phải nộp thuế để làm lễ Giỗ Tổ Hùng Vương .
Đến triều Nguyễn việc phụng thờ Hùng Vương càng được đề cao. Hàng năm triều đình cử các quan đại thần về Giỗ Tổ và cấp tiền tu bổ xây dựng đền thờ, lăng mộ Hùng Vương ở Núi Hùng (Lăng Vua Hùng thứ 6 được xây vào năm 1874); và quy định xuân thu nhị kì hàng năm dân chúng mở hội làm lễ tế. Hùng Vương được đưa vào hàng Thượng đẳng thần và cho rước linh vị vào thờ tại miếu "Lịch Đại Đế Vương" ngay giữa kinh đô Huế. Năm 1917 triều Nguyễn quy định rõ ngày Quốc lễ là ngày 10/3 âm lịch hàng năm, định lệ 5 năm 1 lần tổ chức chính hội , năm lẻ là hội lệ. Ngày Giỗ Tổ năm hội lệ, quan tuần phủ tỉnh Phú Thọ về Đền Hùng làm chủ lễ, quan tri phủ, tri huyện làm bồi tế ; năm tổ chức hội chính quan Thượng thư bộ lễ của triều đình làm chủ lễ, bồi tế là quan tuần phủ, quan tri huyện sở tại.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh số 22c NV/CC ngày 18/2/1946 quy định các ngày nghỉ lễ trong năm, trong đó có ngày Giỗ Tổ Hùng Vương toàn dân và viên chức được nghỉ một ngày. Trong dịp Giỗ Tổ Hùng Vương năm 1946, quyền Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Huỳnh Thúc Kháng cùng đoàn đại biểu Chính phủ lên dự lễ Giỗ Tổ, cụ Huỳnh kính cẩn dâng lên ban thờ các Vua Hùng ở Đền Thượng tâm bản đồ Việt Nam và một thanh kiếm thể hiện ý chí của toàn dân tộc quyêt tâm giữ gìn bảo vệ đất nước mà Tổ tiên đã gây dựng nên. Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, ngày 19/9/1954, trên đường từ chiến khu Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội, gặp gỡ Đại đoàn quân Tiên Phong tại đền Giếng - Khu di tích lịch sử Đền Hùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về Đền Hùng kính cáo Tổ tiên, tại đây Người đã nói câu nói bất hủ : “Các Vua Hùng đã có công dựng nước / Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Trong những năm cuối của thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, Đền Hùng và lễ hội Đền Hùng đã được Đảng, nhà nước ta tồn vinh ở tầm cao mới, thể hiện ở các văn bản quy định tổ chức Đền Hùng theo nghi thức cấp nhà nước vào các năm chẵn, cấp tỉnh vào các năm lẻ cùng các quy định về tôn tạo bảo vệ di tích Đền Hùng, rừng quốc gia Đền Hùng.... sao cho xứng tầm là di tích quốc gia đặc biệt, để Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương thực sự là ngày hội lớn của dân tộc Việt Nam.
Trở lại lễ hội Đền Hùng - từ những nét đẹp nguyên sơ ở các hội làng vùng đất Tổ nhất là các lễ hội vùng phụ cận Đền Hùng, ngành Văn hóa đã chọn lọc đưa vào chương trình tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng trên nguyên tắc bảo đảm tính dân tộc và hiện đại với quy mô ngày càng mở rộng để đáp ứng tâm nguyện của đồng bào cả nước mỗi khi về Đền Hùng. Có khá nhiều hạng mục công trình ở trong khu vực di tích đã được mở rộng, nâng cấp, bổ sung để tạo một không gian lớn theo Quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị Khu di tích lịch sử Đền Hùng, tỉnh Phú Thọ đã được Thủ tương Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 48/QĐ-TTg ngày 30/3/2004 để tổ chức nhiều hoạt động văn hóa thể hiện những nét đẹp tiêu biểu của các vùng văn hóa Việt Nam: Vùng Kinh Bắc, vùng miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Nam Bộ trong những ngày Giỗ Tổ Hùng Vương- Lễ hội Đền Hùng.
Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng trước đây, hiện nay và mai sau luôn là điểm tựa tâm linh của muôn người đất Việt. Hành hương về Đền Hùng là niềm tin thiêng liêng trở về với cội nguồn dân tộc, điều đó làm cho chúng ta thêm tự hào về truyền thống và lịch sử văn hóa Tổ tiên cha ông để lại, càng phải nghĩ suy đến trách nhiệm tiếp tục giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa để làm cho nó có sức sống mãnh liệt lâu bền không chỉ cho hôm nay mà cả muôn đời sau.

T.V.Q
 
Thông báo mới
 
Thời tiết

thietkewebchuyen.com,congdongtin.com, muazui.com