1. Bối cảnh lịch sử
Thực dân Pháp bội ước trở lại xâm lược nước ta lần thứ 2. Trung ương Đảng và Chính phủ đã quyết định xây dựng căn cứ địa cách mạng tại Việt Bắc để từ đó lãnh đạo toàn dân “Trường kỳ kháng chiến”.
Ngày 19/12/1946 Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Từ đó cuộc chiến đấu chống xâm lược Pháp của quân và dân ta đã trở thành cuộc chiến tranh nhân dân trên phạm vi toàn quốc.
Năm 1947, sau khi bình định được một số vùng ở đồng bằng và trung du - Bắc bộ, thực dân Pháp mở cuộc tấn công quy mô lớn lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt quân chủ lực của ta, trên cơ sở đó phá huỷ căn cứ địa kháng chiến, kết thúc chiến tranh xâm lược Việt Nam một cách nhanh chóng. Đánh lên Việt Bắc địch còn nhằm khoá chặt biên giới Việt - Trung, ngăn chặn sự liên lạc giữa ta với quốc tế.
2. Chiến thắng sông Lô
Cuộc tấn công của địch được triển khai theo hướng tập trung lực lượng mạnh tiến theo đường số 4 và đường Sông Lô, tạo thành 2 gọng kìm lớn từ phía Đông và phía Tây nhằm kẹp chặt căn cứ địa cách mạng Việt Bắc. Ngày 9 tháng 6 năm 1947, Tướng Salang hạ lệnh: “"Bịt kín biên giới ngăn chặn không cho Việt Minh liên lạc với Trung Quốc. Loại trừ mọi sự chi viện từ ngoài vào. Truy lùng Việt Minh đến tận sào huyệt. Đánh cho tan tác mọi tiềm lực kháng chiến của họ…" (1). Ông ta còn huyênh hoang "Cuộc tấn công Việt Bắc là một đòn quân sự cực mạnh để kết thúc chiến tranh Đông Dương như một cuộc bắn pháo hoa đẹp mắt…" (2).
Xuất phát từ âm mưu và ý đồ chiến lược như vậy, thực dân Pháp đã huy động hơn 2.000 quân tinh nhuệ, 800 xe cơ giới, 40 máy bay, 40 ca nô, tàu chiến tấn công lên Việt Bắc. Gọng kìm phía đông theo đường số 4 do binh đoàn Bôphrê đảm nhiệm. Gọng kìm phía Tây theo đường sông Lô do binh đoàn Commuynan đảm nhiệm. Ngày 15 tháng 10 năm 1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị "Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp". Chỉ thị đã trở thành mệnh lệnh hành động và ý chí quyết tâm chiến đấu của quân và dân ta trên khắp chiến trường Việt Bắc.
Trên mặt trận sông Lô, Ban Chỉ huy các lực lượng khu 10 (bộ đội chủ lực) đã phối hợp với dân quân, du kích các tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang tích cực phòng thủ, sẵn sàng chiến đấu.
Nhân dân Phú Thọ cắm chông chống quân Pháp nhảy dù trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947. Ảnh: ST
Với mục tiêu: Diệt gọn toàn bộ cánh quân thủy của địch; Ban Chỉ huy mặt trận đã xây dựng kế hoạch hợp đồng tác chiến chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực gồm pháo binh, bộ binh, công binh….với dân quân, du kích địa phương. Pháo binh mạnh được bố trí tại Chí Đám với phương án tác chiến thí điểm áp dụng chiến thuật mới "đặt gần, bắn thẳng". Đã bố trí trận địa giả ở các xã Hữu Đô, Đại Nghĩa… nhằm nghi binh thu hút hoả lực địch. Nhân dân địa phương các xã nằm dọc ven sông Lô nô nức tham gia đóng góp lương thực, thực phẩm và các phương tiện phục vụ cho trận đánh; đã chuẩn bị trống, mõ, kẻng, thùng khua vang để gây thanh thế cho trận chiến; đặc biệt là nhân dân xã Chí Đám và xã Hữu Đô đã hái quả bưởi đem sơn đen vỏ rồi thả xuống dòng sông Lô giả làm thuỷ lôi hướng luồng tàu địch. Tất cả các đơn vị tham gia trận đánh đều được phân công nhiệm vụ cụ thể và có đủ điều kiện phối hợp để phát huy triệt để mọi khả năng tác chiến, đảm bảo thắng lợi cho trận đánh.
Ngày 24/10/1947 Đoàn tàu địch gồm 5 chiếc, được 6 máy bay yểm trợ từ Tuyên Quang xuôi sông Lô đi ứng cứu cho tàu chở quân từ Hà Nội lên đang bị ta chặn đánh tại Khoan Bộ (Lập Thạch - Vĩnh Phúc). Khi tới Chi Đám (Đoan Hùng) chúng lọt vào trận địa phục kích của ta. Pháo binh và bộ đội chủ lực đã phối hợp cùng dân quân, du kích nổ súng tiêu diệt tàu chiến địch. Sau gần 6 giờ chiến đấu quyết liệt, pháo binh ta đã bắn chìm 2 tàu chiến trọng tải 500 tấn, bắn cháy và bắn bị thương 3 chiếc khác; 350 tên địch cùng một số lớn vũ khí, đạn dược bị tiêu diệt. Ta thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự. Sau trận đánh lực lượng tiếp tế của địch không còn khả năng tiến thêm nữa, số còn đóng tại Tuyên Quang hoang mang đến cực độ.
Bộ đội ta nạp đạn pháo 75mm.Ảnh: ST
Ngày 22/11/1947 địch rút chạy từ Tuyên Quang theo sông Lô về Việt Trì :
- Đường sông : Tàu thuỷ và ca nô đi rất chậm.
- Đường bộ: Lính bộ binh đi do thám và sục sạo đề phòng bị phục kích.
- Trên không: Có máy bay yểm trợ.
Ngày 24 /11/ 1947 tàu chiến địch tới Chí Đám (Đoan Hùng) bị trúng trận địa thuỷ lôi của ta. Tàu chở các sĩ quan của địch bị bắn cháy, hơn 100 tên chết chìm theo tàu. Thuỷ binh địch rối loạn, cố vùng vẫy để thoát được ra khỏi trận địa của ta. Trên đà thắng lợi ta tiếp tục truy kích diệt thêm nhiều lính địch.
Tính tổng cộng trên mặt trận sông Lô - thu đông năm 1947 ta tiêu diệt hơn 1.000 tên địch ; 10 tàu chiến và 01 ca nô; hạ 01 thuỷ phi cơ (máy bay chiến đấu), thu rất nhiều vũ khí, đạn dược và đồ dùng quân sự.
3. Ý nghĩa lịch sử
Thắng lợi trên mặt trận sông Lô đã làm nức lòng nhân dân cả nước. Khí thế hào hùng của dân tộc ta bật dậy, cổ vũ toàn dân ta quyết tâm kháng chiến thắng lợi.
Thắng lợi này chẳng những đã góp phần bẻ gãy gọng kìm bao vây phía Tây căn cứ địa Việt Bắc của Pháp, mà còn tác động mạnh vào việc phá tan kế hoạch tấn công mùa đông của địch. Âm mưu thâm độc của kẻ thù nhằm tiêu diệt quân chủ lực của ta, phá vỡ căn cứ địa cách mạng Việt Bắc và triệt tiêu cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến đã hoàn toàn bị sụp đổ. Sau chiến thắng sông Lô hàng loạt chiến thắng khác của quân và dân Việt Bắc nối tiếp nhau đã giáng cho kẻ thù những đòn chí tử. Cục diện chiến trường chuyển sang giai đoạn mới: Ta từ phòng ngự chuyển dần sang cầm cự và tích cực tổng phản công; địch lúng túng, bị động và thất bại.
Đánh giá về chiến thắng sông Lô đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư của Đảng đã viết : "Những trận đánh vô cùng anh dũng của quân và dân ta trên sông Lô và trên con đường Tuyên - Hà tuy chỉ tiêu diệt được trên 1.000 tên tinh nhuệ địch, nhưng khiến cho binh lính, sĩ quan địch mất tinh thần. Chẳng những nó làm sai kế hoạch của địch mà còn phá một phần lớn kế hoạch tấn công Việt Bắc. Giá trị của trận sông Lô chính là ở chỗ đó". (3)
Chiến thắng sông Lô khẳng định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh do Đảng ta chủ trương và lãnh đạo là hoàn toàn đúng đắn. Đó còn là sự sáng tạo trong nghệ thuật chiến tranh của quân và dân ta, biết kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc.
Chiến thắng sông Lô là chiến thắng đầu tiên của quân và dân Phú Thọ phối hợp với bộ đội chủ lực và quân dân 2 tỉnh Tuyên Quang, Vĩnh Phúc trong 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954); đã gắn với những tên đất, tên làng như : Bình Ca, Chí Đám, Sóc Đăng, Phan Lương, Khoan Bộ, Hữu Đô vv…"Chiến thắng Đoan Hùng đã giành được thắng lợi: Tiêu diệt được nhiều địch, thu được nhiều vũ khí, tinh thần chiến đấu của bộ đội địa phương, dân quân du kích được nâng cao, dân chúng tin tưởng tiền đồ cuộc kháng chiến".(4)
Cuối tháng 11/1947 tại lễ mừng chiến thắng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng chỉ huy quân đội đã đọc nhật lệnh tuyên dương công trạng của quân và dân Việt Bắc trong đó có chiến thắng sông Lô; pháo binh khu 10 được vinh dự mang tên " Pháo binh sông Lô ". Đại tướng nhận định : "Chiến thắng Đoan Hùng như một luồng gió mát thổi lan khắp Việt Bắc trong những ngày nóng bỏng nhất của cuộc chiến tranh… Chiến thắng Đoan Hùng mở đầu cho những chiến thắng oanh liệt của bộ đội chủ lực ta trong chiến dịch Việt Bắc …". (5)
Năm tháng đã đi qua, song đại thắng sông Lô vẫn mãi mãi là niềm tự hào không chỉ riêng của nhân dân Phú Thọ mà còn là niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam.
Phạm Bá Khiêm
PCT Hội KHLS tỉnh Phú Thọ
---------------
* Chú dẫn :
(1) Theo Hồi ký của tướng Sa Lang - Tập 2, NXB Pret -Pari, 1971.Tr.58
(2) Theo Giooc giơ Sap-Pha; Tuần báo Pháp - Người quan sát tháng 9/1947.
(3) Trường Chinh - Báo Sự Thật, ngày 19/12/1947.
(4) Tỉnh uỷ Phú Thọ - Rút kinh nghiệm sau trận đánh. Tư liệu lưu trữ tại Tỉnh đội Vĩnh Phú năm 1977.
(5) Chiến thắng sông Lô thu đông 1947 - Bộ Tư lệnh QK II, Tỉnh uỷ Phú Thọ xuất bản 1997 - Tr. 43 + 44.